Linh dị ký với truyện kể dân gian Trung Quốc và thuyết thoại Hán văn của Việt Nam.
Chúng ta đã biết nền văn học Trung quốc vừa phong phú vừa đa dạng,
xuất hiện lâu đời, từ rất sớm đã có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa văn
học truyền miệng và văn học viết. Từ thế kỷ thứ 3 sau công nguyên, ở
Trung Quốc đã xuất hiện nhiều loại truyện cổ tích thần kỳ và truyện
ngắn chí quái như Bác vật chí 博 物 誌 của Trương Hoa, Cao Sĩ truyện 高 士 傳
của Hoàng Phủ Mật …(thế kỷ thứ 3), Sưu thần ký 搜 神 記 của Can Bảo (thế
kỷ thứ 4), U minh lục 幽 冥 錄, Tường minh lục 祥 冥 錄(thế kỷ thứ 5), Thuật
dị ký 術 異 記 (thế kỷ thứ 6) và Linh quái lục 靈 怪錄(thế kỷ thứ 7). Trung
Quốc từ xa xưa đã tiếp thu nhiều truyện cổ của các dân tộc, cùng vó
ngựa bành trướng, muốn trở thành đế quốc rộng lớn. Bên cạnh đó, trong
những năm đầu thế kỷ thứ nhất, Trung quốc cũng chịu ảnh hưởng của văn
hóa Phật giáo. Phật thoại và truyện cổ tích, sử thi Ấn Độ cũng sớm có
mặt tại Trung Quốc.
Ở Nhật Bản, từ thế kỷ thứ 4, 5, khi chữ Hán trở thành công cụ chính
thức trong việc bang giao với đại lục thì văn hóa Hán, văn học Hán đã
thực sự có điều kiện để thâm nhập vào đời sống văn hóa tinh thần của
các cư dân vùng đảo. Các tác phẩm Du tiên quật 遊 仙 窟 , Giá chi truyện 柘
枝 傳 , Bồ đảo tử truyện 蒲 島 子 傳… đã sớm có mặt ở thời Na ra cho thấy
đương thời các thể loại là tiểu thuyết chí quái, truyện truyền kỳ của
Trung Quốc đã được cư dân phù tang yêu thích. Linh dị ký cũng là tác
phẩm chịu nhiều ảnh hưởng của truyện chí quái, truyền kỳ của Trung Quốc
được lưu truyền ở Nhật Bản thời bấy giờ.
Cũng như Nhật Bản, Việt Nam là nước chịu ảnh hưởng của hai nền văn
minh lớn là Trung Quốc và Ấn Độ. Khi chữ Hán chính thức được coi là
công cụ ghi chép, ở Việt Nam đã hình thành dòng văn học viết bằng chữ
Hán. Sự ra đời của nó “là kết quả của những hối thúc từ bên trong do sự
vận động nội tại của bản thân nền học thuật chữ Hán Việt Nam sinh ra,
cộng với những kích thích từ bên ngoài do giao lưu văn học mang lại”.
Xét về nguồn gốc nội tại, thuyết thoại Hán văn của Việt Nam ra đời và
phát triển gắn liền với văn hóa dân tộc, liên quan đến kho tàng thần
thoại, truyền thuyết và truyện cổ tích thần kỳ việt Nam. Về mặt giao
lưu văn học, thuyết thoại Việt Nam đã tiếp thu và chịu ảnh hưởng của
tiểu thuyết chí quái, truyền kỳ Trung Quốc, đồng thời còn vay mượn một
số đề tài cốt truyện, motip có liên quan đến Phật Giáo và các dân tộc
phương Nam thời cổ như Chiêm Thành, Phù Nam, Thiên Trúc…
Do bắt nguồn từ truyện kể dân gian, lại chịu ảnh hưởng của văn học
Trung Quốc, Linh dị ký tuy không có mối giao lưu trực tiếp với các tác
phẩm văn học của Việt Nam, nhưng sự lưu thông giữa các motip và sự hoán
cải các motip và cốt truyện trong Linh dị ký có những nét tương tự như
ở Việt Nam. Người ta có thể dễ dàng tìm thấy những tình tiết, motip,
cốt truyện tương đồng với các tác phẩm của Trung Quốc và Việt Nam trong
Linh dị ký. Xin lấy cốt truyện “bắt thần Sấm” trong Linh dị ký làm ví
dụ.
Truyện 3 quyển Thượng kể về người nông dân làng Katawa đi dẫn nước
vào ruộng, gặp trời mưa liền trú mưa dưới gốc cây. Đúng lúc đó thần Sấm
giáng hạ, người nông dân định dùng gậy sắt đập chết thần Sấm, nhưng khi
nghe thần Sấm nói trả ơn bằng cách cho đứa con, ông bèn làm máng nước
bằng cây quế hương, thả lá tre xuống cho thần Sấm bay về trời.
Đây là phần đầu truyện Bắt thần Sấm trong Linh dị ký. Thần Sấm là nhân
vật thường xuất hiện trong truyện cổ và truyền thuyết dân gian ở các
nước trong khu vực. Tuy vị trí địa lý có khác nhau, song Trung Quốc
(vùng phương Nam), Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam từ xa xưa cũng là
những nước nông nghiệp, lấy lúa nước làm cây trồng cơ bản. Với khí hậu
ấm áp, lượng mưa mùa hạ lớn đã đem lại cho các nước thảm thực vật phong
phú, hoa trái bốn mùa tươi tốt, nghề nông với cây lúa nước có điều kiện
để phát triển và giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Bên cạnh đó,
các nước cũng phải hứng chịu những khắc nghiệt do thiên nhiên mang lại,
đe dọa cuộc sống và tính mạng con người như lũ lụt, ngập úng, hạn hán
và sấm sét. Xuất phát từ nhu cầu ca ngợi tôn vinh, ngay từ những tác
phẩm ghi chép truyện dân gian đầu tiên ở các nước đã xuất hiện những
anh hùng chống thiên tai mang tầm vóc vũ trụ. Trong cuộc đấu tranh đó,
những người bình thường nhưng có khả năng hòa hợp với thiên nhiên, sau
khi chết đi được tôn thành thần, và họ cũng chiếm một vị trí quan trọng
trong đời sống tâm linh của người dân. Truyện về những người “bắt thần
Sấm” trong Linh dị ký và truyện kể dân gian ở các nước trong khu vực
phản ánh một chiều kích khác của đời sống tâm linh của con người.
Từ thế kỷ thứ 4, thời nhà Tấn trong tác phẩm Sưu thần ký 搜 神 記 của
Can Bảo, cũng đã xuất hiện truyện bắt thần Sấm. Truyện của Can Bảo kể
rằng: Dương Đạo Hòa trú mưa dưới gốc cây dâu, gặp thần Sấm giáng hạ,
anh ta bèn lấy thuổng đập gẫy đùi thần Sấm. Trong Dậu dương tạp trở, 酉
陽 雜 俎 quyển 8, có truyện Vương Cán. Truyện kể rằng, Vương Cán người
Trịnh Châu, vốn bạo dạn, chẳng biết sợ ai. Vào mùa hè năm Trinh Nguyên
đầu, đi làm ruộng, gặp trời mưa to bèn chạy vào ngôi nhà chăn tằm ở gần
đó để tránh mưa. Bấy giờ sét đánh vào trong nhà, khí đen lan tỏa, nhà
tối như mực, Cán vội ra đóng cửa, cầm cuốc khua loạn lên. Tiếng sét nhỏ
dần, khí mây cũng thu lại. Cán vừa hô lớn vừa đánh lấy đánh để, khí đen
dài như nửa chiếc giường, sau lại cuốn tròn như chiếc mâm, lát sau rơi
xuống đất, biến thành thỏi sắt. Cán bèn lấy thỏi sắt đó rèn thành dao,
những vụn sắt đúc thành nồi nhỏ có chân như cái vạc.
Ở Việt Nam, trong Công dư tiệp ký 公 餘 捷 記 của Vũ Phương Đề cũng có
truyện đánh nhau với thần Sấm. Phần đầu câu chuyện tóm tắt như sau:
Cường Bạo Đại Vương, người xã Bối Cẩm, huyện Thiên Bản (Nam Định), tính
khí ngỗ ngược, khinh miệt người đời, quên cả cha mẹ, không cúng giỗ tổ
tiên. Chỉ có Táo thần là được ông sớm hôm cúng lễ, dù chỉ là một com
tôm. Táo thần thấy ông có lòng thành, thường hay phù hộ. Một hôm, cha
mẹ ông đem tội trạng của ông tố cáo với Thiên Đình, Thiên Đình bèn sai
Lôi thần xuống đánh. Nhờ có Táo thần mách nước, Cường Bạo đem lá mồng
tơi giã nhỏ trộn với dầu nước, tưới lên mái nhà, khi Thiên lôi từ trên
trời bay xuống, vừa đặt chân lên nóc nhà đã bị trượt ngã xuống đất.
Cường Bạo ở trong nhà lấy gậy ra đánh, thần Sét phải chuồn mất. Sau đó
ông còn cướp được một đoạn dây đồng đỏ dài độ một trượng, đem chôn ở
một chỗ cao ráo sạch sẽ.
Trong khi nghiên cứu Linh dị ký với thuyết thoại của Trung Quốc, nhà
nghiên cứu Kono Kimiko 河 野 貴 美 子 (Đại học Waseda, Nhật Bản) đã có sự so
sánh tỉ mỉ cốt truyện bắt thần Sấm trong Linh dị ký và các truyện kể
dân gian của Trung Quốc và thuyết thoại Nhật Bản, từ nhân vật, địa
điểm, hình dáng thần Sấm, phương pháp bắt thần Sấm, thần Sấm bay lên
trời, sự báo thù, trả ơn của thần Sấm (17) . Kono cho rằng, phần lớn
nhân vật bắt thần Sấm trong các thuyết thoại của Trung Quốc là người
nông dân, hoặc người dân bình thường. Phương pháp bắt thần Sấm cũng
muôn hình muôn vẻ, người dùng vết nứt của bia để kẹp lấy thần Sấm
(truyện 1, quyển Thượng, 靈 異 記 ); dùng gậy sắt giơ lên bắt thần Sấm
(truyện 3, quyển Thượng, Linh dị ký 靈 異 記 ); đọc Kinh Pháp hoa bắt thần
Sấm giáng hạ ở ngay ngôi tháp do thần Sấm phá vỡ (quyển Hạ, Pháp Hoa
nghiệm ký 法 華 驗 記 - Nhật Bản); dùng cuốc đánh gẫy đùi thần Sấm (quyển
111, Sưu thần ký 搜 神 記); vừa cưỡi ngựa vừa giơ mâu lên để giết thần Sấm
(Quyển 18, Bắc Tề thư 北 齊 書 ); dụ cho thần Sấm nhảy xuống cây, dùng vết
nứt ở thân cây kẹp chặt lại rồi bắt thần Sấm (Tiên cảm ngẫu truyện 仙 感
偶 傳 , quyển 394 trong Thái Bình quảng ký 太 平 廣 記 ); dùng đồ thần Sấm
kiêng ăn như cá vàng, thịt lợn, gọi thần Sấm xuống, rồi dùng dao chém
vào đùi thần Sấm, làm thần Sấm rơi xuống (Truyền kỳ 傳 奇 , quyển 394
trong Thái Bình quảng ký 太 平 廣 記 …
So với phương pháp dùng “vết nứt của cây và đá” để bắt thần Sấm
trong Linh dị ký và thuyết thoại của Trung Quốc, chúng ta cũng dễ nhận
thấy cách bắt thần Sấm của người Việt cũng có nét độc đáo. Như truyện
nêu trên, thần Táo đã dạy cho Cường Bạo dùng những sản vật đặc trưng
của vùng nhiệt đới như mồng tơi và dầu nước (có lẽ là dầu lạc) là những
nguyên liệu dễ kiếm cho bữa ăn hàng ngày vào mùa hè để đối phó với thần
Sấm. Nhờ có chất nhớt trong cây mồng tơi và dầu nước tưới trên nóc nhà
nên thần Sấm đã bị trượt ngã, bị đánh và phải bỏ chạy. Chi tiết thần
Sấm trượt ngã vì nhớt mồng tơi và dầu nước không chỉ đề cao trí thông
minh của con người, mà còn đem lại sự hưng phấn làm cho tiếng cười dân
gian thêm sảng khoái.
Nét độc đáo ở cốt truyện bắt thần Sấm trong Linh dị ký, theo Kono và
một số nhà nghiên cứu Nhật Bản, thể hiện ở trang phục của Sugura -
người được Thiên hoàng ra lệnh đi bắt thần Sấm. Sugura được mô tả:
“…trên trán thắt dây bìm bìm mầu đỏ, vác cây mâu trên cắm lá cờ đuôi
nheo cũng màu đỏ, cưỡi con ngựa đi từ con đường Yamabe, thôn Abe ra tới
con đường trước chùa Toyora”. Theo các nhà nghiên cứu Nhật Bản, Suga ru
đã mặc trang phục của võ sĩ Nhật Bản thời xưa khi ra trận. Màu đỏ tía
của dây bìm bìm và cờ đuôi nheo cắm ở ngọn nâu để trừ ma tà là thể hiện
tinh thần dũng mãnh của người võ sĩ. Chi tiết này được tác giả tái tạo
một cách thẩm mỹ dựa theo những yếu tố truyền thống trong sinh hoạt của
người dân Nhật Bản.
Về chi tiết thần Sấm báo thù, và trả ơn, ở truyện 1, quyển Thượng,
truyện kể sau khi Suga ru mất, Thiên hoàng ra lệnh làm lễ mai táng ông
bảy ngày bảy đêm, mai táng ông ở nơi thần Sấm giáng xuống, dựng bia
trên mộ đề rằng: “Mộ của Sugu ru, người đã bắt được thần Sấm”. Thần Sấm
thấy vậy, lấy làm oán ghét, giáng sấm sét xuống tấm bia, rồi nhảy xuống
định dẫm nát trụ bia, nhưng lại bị kẹp chặt vào vết nứt của trụ bia.
Thiên hoàng nghe chuyện, sai người gỡ ra, thần Sấm mới thoát chết; Chi
tiết thần Sấm báo ơn xuất hiện ở truyện 3, quyển Thượng, thần Sấm sau
khi được tha đã tặng cho người nông phu đứa bé con.
Theo Kono, trong thuyết thoại của Trung Quốc đều xuất hiện hai tình
tiết, báo ơn và trả thù đối với người đánh nhau với thần Sấm. Ở quyển
18, Bắc Tề thư, kể lại sau khi đánh nhau với thần Sấm, tóc của Thệ Cô
Diên cùng lông và bờm ngựa bị cháy hết; quyển 394, sách Thái Bình quảng
ký kể lại, sau khi bay về trời, thần Sấm để trả thù luôn đuổi theo sau
Trần Loan Phượng, nhưng do Phượng luôn đề phòng, đi đâu cũng mang dao
đi theo, lại đào hố để ẩn náu nên vẫn bình yên. Ông còn có khả năng gọi
mưa, nên người đời gọi là Vũ sư (thày gọi mưa). Truyện 394, Thần Tiên
cảm ngẫu truyện, chi tiết thần Sấm báo ơn được thể hiện bằng việc thần
Sấm giúp dân làm mưa, trừ dịch bệnh.
Chi tiết báo thù ở truyện Cường Bạo Đại Vương của Việt Nam khác với
Linh dị ký và thuyết thoại Trung Quốc. Người báo thù không chỉ là thần
Sấm, mà còn có sự hỗ trợ của Táo thần. Cường Bạo từ khi được Táo thần
phù hộ, sinh ra chủ quan, ngày một ngang ngược. Một hôm ông ta bắt được
con cua đồng đêm về nướng ăn, không cúng Táo thần nên Táo thần tìm cách
hại lại ông. Táo thần khuyên ông, khi trời sắp mưa thì xỏ tay vào lỗ
vai cày và lấy then gỗ ngang khóa chân lại. Cường Bạo làm theo, chẳng
ngờ khi mưa gió ập tới, ông ta muốn chạy nhưng không chạy được liền bị
Thiên lôi đánh chết.
Đoạn kết truyện bắt thần Sấm ở Linh dị ký và thuyết thoại các nước
phần lớn mang cảm hứng tôn vinh. Sasuga, người bắt được thần Sấm, sau
khi chết đi được vua xây mộ, dựng bia đề ngợi ca: “Một Suga ru, người
lúc sống bắt được thần Sấm, khi mất cũng bắt được thần Sấm”. Trần Loan
Phượng (Trung Quốc) cũng được phong làm Vũ sư. Truyện Cường Bạo Đại
Vương (Việt Nam) tình tiết tuy có khác với Linh dị ký và thuyết thoại
Trung Quốc, song rốt cuộc, sau khi chết, cũng được dân làng phong làm
Phúc thần, lập đền thờ phụng.