Nguồn: http://www.jovp.org/vanh0a/?p=16
Haiku
August 22, 2007 Haiku
là một thể thơ của Nhật, được truyền sang Trung Hoa rồi vào Việt Nam.
Hiện nay thể thơ này cũng đã du truyền sang các nước Tây Phương như Mỹ
Pháp.
Hàng năm có những cuộc thi haiku ở Nhật, số bài tham dự đến cả mấy chục ngàn, có khi cả trăm ngàn bàị
haiku (tiếng Nhật: 俳句) (Bài cú) là loại thơ độc đáo của Nhật Bản, xuất phát từ ba câu đầu (発句 hokku, phát cú) của những bài renga ( 連 歌 liên ca) có tính trào phúng gọi là renga no haikai ( 連 歌 の 俳 諧 ) mà sau gọi tắt là haikai ( 俳 諧 bài hài). Thể thơ haiku được tạo ra vào thế kỉ 17 và phát triển mạnh vào thời kì Edo(1603 - 1867) khi đã dần mất đi sắc thái trào phúng mà mang âm hưởng sâu thẳm của Thiền tông. Thiền sư thi sĩ lỗi lạc Matsuo Basho được thừa nhận là người khai sinh ra haiku và Yosa Buson, Masaoka Shiki đã hoàn thiện nó dưới diện mạo và tên gọi như chúng ta thấy ngày nay. Đây có lẽ là thể thơ ngắn nhất thế giới bởi mỗi bài haiku,
mặc dù đôi khi ta vẫn thấy có những hình thức khác, nhưng thường chỉ
vỏn vẹn 17 âm tiết trong 3 câu 5+7+5 (17 âm tiết tiếng Nhật có khi chỉ
vài ba từ ít ỏi, 3 câu trong cú pháp haiku cũng thường được viết thành một dòng). Chẳng hạn bài thơ con ếch nổi tiếng sau đây của Matsuo Bashō trong tập Haru no hi ( 春 の 日,Xuân nhật, 1686) viết chung với đồ đệ, có cú pháp 5+7+5 âm tiết:
古池や Furuikeya
蛙飛び込む Kawazu tobikomu
水の音 Mizu no oto
Ao cũ
Con ếch nhảy vào
Vang tiếng nước xao.
Về hình thức thì haiku gồm 3 câu và 17 âm, không phải 17 chữ, chia làm 5,7,5.
Tiếng Nhật và hầu hết ngôn ngữ gốc latin-roman của TâY Phương đa âm nên
nhiều khi 1 câu chĩ có 1 chữ hay haị Thí dụ như “Sayonara” tính là 4
âm, “unforgettable” đã là 1 câu rồị
Riêng tiếng đơn âm như Hán, Việt hay Triều Tiên thì có thể dùng 17
chữ trong 3 câu, vì vậy diễn dạt được nhiều hơn. Nhưng tinh túy của haiku không phải là để nói nhiều, mà để diễn dạt một thoáng suy tư, một khung cảnh cô đọng, một chút thiền.
Haiku không phải là một phim bộ dài dòng mà là một
tấm ảnh chụp lấy một khoảng khắc, một trừu tượng, một tư duy, nên nhiều
khi vài chữ cũng đủ. Cái hay và khó hay của haiku là ở chỗ đó. Đọc một bài thơ haiku hay như nghe một tiếng khánh cô đọng thật ngắn gọn nhưng ngân nga, để lại ấn tượng lâu trong tâm hồn người.
Haiku không có luật về âm điệu và vần. Kết hợp vào
thơ Việt Nam ta có thể cho câu cuối vần với 1 trong hai câu trên, nhưng
không bắt buộc.
Về nội dung, haiku chính tông đòi hỏi trong bài phải nói về một trong bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông. Không có nghĩ là phải nêu tên một mùa ra mà dùng biểu tượng cũng được, như tuyết, hoa đào, nắng ấm v.v.
Dù vậy quy luật này cũng không cần theo vì gò bó vào một khía cạnh
quá. Trong văn học sử Nhật có thiền sư Basho là người để lại nhiều bài haiku bát ngát hương Thiền.
Với dân tộc Nhật Bản, haiku được xem như tinh hoa của văn hóa dân tộc. Dưới góc nhìn của Thiền tông, haiku
là thể thơ đặc biệt có thể hàm chứa được thực tại nhiệm mầu trong vỏn
vẹn 17 âm tiết, vừa sâu lắng uyên thâm, lại vừa đơn sơ giản dị, nhiều
khi trở thành phương tiện hữu hiệu truyền tải một công án để các môn
sinh tu tập Thiền. Chủ đề của thơ haiku thường lồng vào khung cảnh của bốn mùa.
Niêm luật cơ bản của haiku
• Trong thơ haiku
bắt buộc phải có kigo (季語, quý ngữ) nghĩa là từ miêu tả một mùa nào đó
trong năm. Có thể trực tiếp hay gián tiếp thông qua các hình ảnh, hoạt
động hay những cái gì đó mà mang đặc trưng của một mùa trong năm.
• Mỗi bài thơ thông thường có cấu trúc âm tiết 5 + 7 + 5 trong ba câu. Tuy nhiên, ngay cả tổ sư của haiku Matsuo Basho cũng đôi khi sử dụng ít hơn hoặc nhiều hơn số âm tiết đã nói trên; chẳng hạn như:
Tịch liêu
Thấu xuyên vào đá
Tiếng ve kêu.
Tứ trụ haiku của Nhật Bản
• Matsuo Basho (松尾芭蕉) (1644 - 1694)
• Yosa Buson (与謝蕪村) (1716 - 1784)
• Kobayashi Issa (小林一茶) (1763 - 1828?)
• Masaoka Shiki (正岡子規) (1867 - 1902)
Thơ haiku thí dụ
Người chiết tự trong đêm
Chữ bình tâm loay hoay xếp mãi
Quên ngày mới vừa lên
Ngư ông không dụng mồi
Con Koi bạc chưa hề sứt mép
Chiều nay về cơm chay
Xếp chân mong thiền tọa
Ruồi đậu bàn tay, vỗ bàn tay
Tâm tịnh mất khi nàỵ
Giá áo và túi phân
Vùng kinh điển đốt hoài chẳng hết
Về đi, tập đánh vần!
Nước chảy đá cũng mòn
Ta góc cạnh từ khi nhập thế
Nay thành viên sỏi tròn.
Nhắm mắt và mở mắt
Nội tâm, ngoại giới tiếp liền nhau
Nơi nào ít khổ đau ?
Tiền thân dù bồ tát
Hậu vận trăm năm vẫn mịt mùng
Bây giờ là túi cơm.
Haiku
August 22, 2007 Haiku
là một thể thơ của Nhật, được truyền sang Trung Hoa rồi vào Việt Nam.
Hiện nay thể thơ này cũng đã du truyền sang các nước Tây Phương như Mỹ
Pháp.
Hàng năm có những cuộc thi haiku ở Nhật, số bài tham dự đến cả mấy chục ngàn, có khi cả trăm ngàn bàị
haiku (tiếng Nhật: 俳句) (Bài cú) là loại thơ độc đáo của Nhật Bản, xuất phát từ ba câu đầu (発句 hokku, phát cú) của những bài renga ( 連 歌 liên ca) có tính trào phúng gọi là renga no haikai ( 連 歌 の 俳 諧 ) mà sau gọi tắt là haikai ( 俳 諧 bài hài). Thể thơ haiku được tạo ra vào thế kỉ 17 và phát triển mạnh vào thời kì Edo(1603 - 1867) khi đã dần mất đi sắc thái trào phúng mà mang âm hưởng sâu thẳm của Thiền tông. Thiền sư thi sĩ lỗi lạc Matsuo Basho được thừa nhận là người khai sinh ra haiku và Yosa Buson, Masaoka Shiki đã hoàn thiện nó dưới diện mạo và tên gọi như chúng ta thấy ngày nay. Đây có lẽ là thể thơ ngắn nhất thế giới bởi mỗi bài haiku,
mặc dù đôi khi ta vẫn thấy có những hình thức khác, nhưng thường chỉ
vỏn vẹn 17 âm tiết trong 3 câu 5+7+5 (17 âm tiết tiếng Nhật có khi chỉ
vài ba từ ít ỏi, 3 câu trong cú pháp haiku cũng thường được viết thành một dòng). Chẳng hạn bài thơ con ếch nổi tiếng sau đây của Matsuo Bashō trong tập Haru no hi ( 春 の 日,Xuân nhật, 1686) viết chung với đồ đệ, có cú pháp 5+7+5 âm tiết:
古池や Furuikeya
蛙飛び込む Kawazu tobikomu
水の音 Mizu no oto
Ao cũ
Con ếch nhảy vào
Vang tiếng nước xao.
Về hình thức thì haiku gồm 3 câu và 17 âm, không phải 17 chữ, chia làm 5,7,5.
Tiếng Nhật và hầu hết ngôn ngữ gốc latin-roman của TâY Phương đa âm nên
nhiều khi 1 câu chĩ có 1 chữ hay haị Thí dụ như “Sayonara” tính là 4
âm, “unforgettable” đã là 1 câu rồị
Riêng tiếng đơn âm như Hán, Việt hay Triều Tiên thì có thể dùng 17
chữ trong 3 câu, vì vậy diễn dạt được nhiều hơn. Nhưng tinh túy của haiku không phải là để nói nhiều, mà để diễn dạt một thoáng suy tư, một khung cảnh cô đọng, một chút thiền.
Haiku không phải là một phim bộ dài dòng mà là một
tấm ảnh chụp lấy một khoảng khắc, một trừu tượng, một tư duy, nên nhiều
khi vài chữ cũng đủ. Cái hay và khó hay của haiku là ở chỗ đó. Đọc một bài thơ haiku hay như nghe một tiếng khánh cô đọng thật ngắn gọn nhưng ngân nga, để lại ấn tượng lâu trong tâm hồn người.
Haiku không có luật về âm điệu và vần. Kết hợp vào
thơ Việt Nam ta có thể cho câu cuối vần với 1 trong hai câu trên, nhưng
không bắt buộc.
Về nội dung, haiku chính tông đòi hỏi trong bài phải nói về một trong bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông. Không có nghĩ là phải nêu tên một mùa ra mà dùng biểu tượng cũng được, như tuyết, hoa đào, nắng ấm v.v.
Dù vậy quy luật này cũng không cần theo vì gò bó vào một khía cạnh
quá. Trong văn học sử Nhật có thiền sư Basho là người để lại nhiều bài haiku bát ngát hương Thiền.
Với dân tộc Nhật Bản, haiku được xem như tinh hoa của văn hóa dân tộc. Dưới góc nhìn của Thiền tông, haiku
là thể thơ đặc biệt có thể hàm chứa được thực tại nhiệm mầu trong vỏn
vẹn 17 âm tiết, vừa sâu lắng uyên thâm, lại vừa đơn sơ giản dị, nhiều
khi trở thành phương tiện hữu hiệu truyền tải một công án để các môn
sinh tu tập Thiền. Chủ đề của thơ haiku thường lồng vào khung cảnh của bốn mùa.
Niêm luật cơ bản của haiku
• Trong thơ haiku
bắt buộc phải có kigo (季語, quý ngữ) nghĩa là từ miêu tả một mùa nào đó
trong năm. Có thể trực tiếp hay gián tiếp thông qua các hình ảnh, hoạt
động hay những cái gì đó mà mang đặc trưng của một mùa trong năm.
• Mỗi bài thơ thông thường có cấu trúc âm tiết 5 + 7 + 5 trong ba câu. Tuy nhiên, ngay cả tổ sư của haiku Matsuo Basho cũng đôi khi sử dụng ít hơn hoặc nhiều hơn số âm tiết đã nói trên; chẳng hạn như:
Tịch liêu
Thấu xuyên vào đá
Tiếng ve kêu.
Tứ trụ haiku của Nhật Bản
• Matsuo Basho (松尾芭蕉) (1644 - 1694)
• Yosa Buson (与謝蕪村) (1716 - 1784)
• Kobayashi Issa (小林一茶) (1763 - 1828?)
• Masaoka Shiki (正岡子規) (1867 - 1902)
Thơ haiku thí dụ
Người chiết tự trong đêm
Chữ bình tâm loay hoay xếp mãi
Quên ngày mới vừa lên
Ngư ông không dụng mồi
Con Koi bạc chưa hề sứt mép
Chiều nay về cơm chay
Xếp chân mong thiền tọa
Ruồi đậu bàn tay, vỗ bàn tay
Tâm tịnh mất khi nàỵ
Giá áo và túi phân
Vùng kinh điển đốt hoài chẳng hết
Về đi, tập đánh vần!
Nước chảy đá cũng mòn
Ta góc cạnh từ khi nhập thế
Nay thành viên sỏi tròn.
Nhắm mắt và mở mắt
Nội tâm, ngoại giới tiếp liền nhau
Nơi nào ít khổ đau ?
Tiền thân dù bồ tát
Hậu vận trăm năm vẫn mịt mùng
Bây giờ là túi cơm.